Chỉ có những nguyên tắc và quy chế nào đó đã làm nên một sự khập khiễng không đáng có: Giải thưởng Nhà nước năm 2001, trao cho Tuyển tập Trường ca, và tiểu thuyết hai tập Dưới đám mây màu cánh vạc. Lần này trao cho hai tiểu thuyết Chớp trắng và Vùng pháo sáng, cùng tập truyện ngắn Dưới tro. Điều đó đồng nghĩa với toàn bộ tác phẩm làm nên danh xưng, mà cũng là những gì thể hiện tài hoa và tính cách Thu Bồn rõ nhất là thơ, một phần đã được in trong các tập Tre xanh (1969), Mặt đất không quên (1970), Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (1992), Tôi nhớ mưa nguồn (1999)... đã nằm ngoài hai giải thưởng quan trọng.
Vài năm trước khi mất, nhà thơ có nhờ tôi chuyển tới nhiều lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước để hỏi lý do các tác phẩm đã đưa vào sách giáo khoa các cấp của mình bị loại bỏ. Cho đến lúc mất, vẫn không được bất cứ ai hồi âm. Hai sự kiện này, liệu có gì liên quan?
Băng Ngàn thay cha nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh. Ảnh TLGĐ
Nhưng bài viết có tiêu đề này không vì những chuyện ngoài văn chương đó. Nhân Hà Băng Ngàn, người con duy nhất còn lại của nhà thơ ra nhận giải thưởng của cha, chị Đỗ Thị Thanh Thu, Trung tá - bác sĩ quân y, mẹ của Băng Ngàn có gửi cho tôi một bức thư như để làm tin. Một bức thư “rất Thu Bồn” về nhiều phương diện, viết cuối năm 1971, khi sang Matxcơva rồi sang Ấn Độ. Sức khỏe kém, tiền túi không có, nhìn nước bạn mà liên hệ đến cảnh nghèo hèn và chiến trận liên miên của nước mình. “Chắc từ nay anh sẽ không bao giờ đi xa Tổ quốc nữa đâu - Anh sẽ làm việc không mệt mỏi cho đất nước mình và sẽ chết ở đó thôi. Em thân yêu. Đừng trách móc anh có những điều gì không phải đối với em. Giúp đỡ anh về mặt tinh thần để anh có thể làm được việc lớn hơn. Sức khỏe anh đã kém nhiều rồi. Thời gian làm việc còn rất ít. Anh có lãng mạn chút ít nhưng còn hơn là người chẳng có tâm hồn. Em đừng bận tâm nhiều”.
Chính chút ít lãng mạn này đã làm nên nhiều chương vui buồn trong cuộc đời nhà thơ mà bạn bè đồng thời vừa ghen tỵ vừa thèm muốn, nhưng đều coi ông là một tráng sĩ. Báo chí đã nói nhiều đến chất tráng sĩ này. Xuất thân trong một làng quê nghèo đói. Ngày bị Pháp chiếm, cả làng đầy người chết, phần vì Pháp bắn, phần vì chết đói. Ban đêm, làng chỉ còn một đảng viên cộng sản, đội hầm lên, gom xác người chết đi chôn. Cậu bé Hà Đức Trọng cầm đuốc soi đường cho người đảng viên lần mò chôn cất người dân hàng đêm.
Ngày Trọng được đưa đi học, người đảng viên nhờ Trọng cất giữ một bảo vật của quê nhà để trong một gói nhỏ. Trước khi đi, Trọng khoe với mẹ. Bà mẹ sợ con còn nhỏ, không giữ được vàng bạc, châu báu của làng, mở ra xem. Đó là một lá cờ Đảng nhỏ. Trong những trận chiến đấu quyết liệt ngay sau đó, hơn một lần, lá cờ Đảng được giương lên để động viên ý chí chiến đấu của đồng đội. Trọng sớm tham gia đội văn nghệ của đơn vị. Một vở diễn ngày ấy, anh chỉ sắm vai phụ, nhưng lời người lính già ca câu chính khí nhập tâm mãi suốt đời: Này con ơi, Tổ quốc lâm nguy. Này con ơi, Lời Đảng gọi vang rền. Non sông mờ khói lửa... Con xa cha nhưng con có Đảng. Bếp lửa hồng soi sáng mãi đời con.
Thời gian đó, cha anh bị giặc bắt và hy sinh trong nhà tù. Chị gái, một cán bộ trẻ đầy triển vọng, bị Pháp bắt và xẻo thịt, chặt tay để lấy mấy chỉ vàng là vốn đoàn thể mà chị được trao giữ. Một đời tham gia chiến đấu và sáng tác, người lính, mượn tên của dòng sông quê hương làm bút danh cho mình đã luôn xứng đáng với những người thân yêu, với quê hương kiên cường, bất khuất của mình.
Nhiều vị lãnh đạo chủ chốt của Khu V và Đà Nẵng đã dành cho Thu Bồn những lời tận can tràng. Hồ Nghinh (nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng - Bí thư tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng): “Thu Bồn lạ lắm. Thơ Thu Bồn hay lắm...Thu Bồn là số một”. Hoàng Minh Thắng (nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng - Bí thư tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Bộ trưởng): “Thu Bồn là nhà thơ lớn. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ anh như tiếng kèn xung trận, có tác dụng động viên sức mạnh toàn quân, toàn dân đánh thắng giặc xâm lược”. Phạm Đức Nam (nguyên Chủ tịch tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng): “Thu Bồn trở thành một biểu tượng anh hùng sáng đẹp của quê hương mình... Thu Bồn ngày nay vẫn y như Thu Bồn ngày xưa đánh Mỹ. Thơ Thu Bồn mạnh hơn một binh đoàn”.
Mặc dầu nhận được những tình cảm tốt đẹp, sự đánh giá cao như vậy, nhưng những năm cuối đời, sau khi về hưu, đặc biệt sau lần bị đột quỵ trong một lần đang đọc thơ khi trở lại Tây Nguyên, nhà thơ muốn tìm một nơi cư trú ở thành phố quê nhà, nơi từng gắn bó nhiều năm trong chiến tranh và cả thời kỳ đầu xây dựng. Nhưng không thể. Hộ khẩu tôi nhập cuộc với tình yêu/ Thành phố hỡi, Đừng gọi tôi là tạm trú. Sau một đời chiến trận, nhà thơ đã không tìm được hộ khẩu ngay trên quê hương của mình.
Dẫu trải qua nhiều mối tình, nhưng nhà thơ chỉ có hai người con trai với người vợ đầu tiên. Quen nhau, từng đóng kịch hai vai chính trong vở Anh Tài - Chị Ngộ, nhưng thầy hiệu trưởng là chú chị Thu đã ngăn cuộc tình duyên vừa chớm nở, vì sợ cháu mình sẽ khổ một đời vì lấy chàng trai lãng mạn. Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, Thu Bồn theo đơn vị tập kết ra Bắc, ngỡ là chia cắt được đôi bạn trẻ. Nhưng năm 1961, Thu Bồn trở lại chiến trường sớm nhất trong lớp văn nghệ sĩ. Lần tìm dấu người xưa, biết tin chị Thu ở lại, tham gia đấu tranh chính trị, bị đi tù. Con gái mới lớn, da trắng, mặt tươi, bị các anh lính bắt vào tranh nhau làm thân, chị thoát được trốn lên Đà Nẵng, vào tận Sài Gòn, chỗ đông người để lẫn tránh. Móc nối liên lạc, chị tham gia Đội biệt động Sài Gòn.
Người thân và bằng hữu bên mộ phần nhà thơ
Thu Bồn tìm về người thân để biết địa chỉ và thư từ kết nối. Nể tình cảm của tác giả kịch bản cải lương Trường ca chim Chrao, đích thân Bí thư Khu ủy Võ Chí Công liên hệ với Thành ủy Sài Gòn để xin cô y tá Đỗ Thị Thanh Thu ra Khu V công tác. Thời gian sau, năm 1965, chính ông đứng ra làm chủ hôn cho lễ cưới hai người. Nhưng bánh kẹo vừa bày ra thì biệt kích đổ bộ, bom đạn đầy trời, tất cả chạy táo tác trong những cánh rừng lá rụng vì chất độc da cam. May không ai việc gì. Mấy tuần sau trở về, Bí thư Khu ủy bảo: “Xong, coi như cưới xong rồi, cho chúng nó về ở với nhau”.
Năm 1966, cháu Thảo Nguyên ra đời nhưng hai chân khòng khèo, bác sĩ phải bẻ ra, bó bột lại. Cuối 1968, họ có đứa thứ hai. Thu Bồn bị thương, sức khỏe sa sút, tổ chức cho hai vợ chồng ra Bắc. Thu Bồn đục lỗ ba lô để cõng con sau lưng, chị Thu cõng con phía trước. Nhưng chưa ra đến cửa rừng, thì chị sinh Băng Ngàn ở Làng Ho, tây Quảng Bình.
Bị bệnh máu trắng, 16 tuổi, đẹp như một thiên thần, Thảo Nguyên ra đi: Ba chôn sâu trong lòng đất/ Kỷ niệm đau buồn cuộc chiến đấu của ba. Băng Ngàn niềm hy vọng còn lại lớn lên cũng không có khả năng học tập và làm việc, gia đình nhỏ tưởng êm ấm hóa ly tán. Nhà thơ đi qua vài cuộc hôn nhân, nhưng không dám có con lần nữa. Ám ảnh di chứng chất độc da cam đã thấm trong xương tủy, khiến một người cao lớn, ngỡ như đầy năng lượng sống, đầy sức cuốn hút, lại rất mặc cảm khi tính chuyện con cái: Ta cũng là trăng luôn mắc lưới/ Vớt lên ướt hết nửa cuộc đời.
Những bài thơ cuối đời của Thu Bồn không giấu được niềm đau: Tôi về quê như một kẻ lạc loài/ Vần với điệu làm tôi chóng mặt/ Tôi muốn tìm lại một tình thương trong đôi mắt/ Nhưng Mẹ đã âm thầm nằm lại dưới đất sâu.
Ngô Thảo
Thơ tình của Thu Bồn
LTS. Thu Bồn sáng tác cả thơ lẫn văn xuôi, nhưng sự nghiệp văn chương của ông nghiêng ấn tượng về thơ với hàng loạt trường ca (Bài ca chim Chơ Rao, Oran 76 ngọn, Người vắt sữa bầu trời, Bazan khát, Thông điệp mùa xuân...) và nhiều tập thơ lẻ (Tre xanh, Mặt đất không quên, Tôi nhớ mưa nguồn, 100 bài thơ tình nhờ em đặt tên...). Có một Thu Bồn vạm vỡ và dữ dội trong trường ca. Lại có một Thu Bồn dịu dàng và thiết tha trong thơ trữ tình. Xin giới thiệu một số bài tình của ông.
Bài số 1
tôi già hơn em một cuộc chiến tranh
trong buổi trưa nắng khát này
tôi nhận từ tay em bát nước quá đầy
bàn tay tôi run rẩy
làm sao khỏi sánh ra ngoài những giọt nước trong
Bài số 3
em trao cho anh chìa khóa
mở bao điều thầm kín tình yêu
anh có biết đâu
trong tay em còn chùm chìa khóa khác
Bài số 15
anh thả con chim sẻ buồn xuống nhặt thóc vườn em
nhưng hạt thóc đã lên mầm
anh nhặt tiếng hót bầy chim ghép lại thành vần thơ có cánh
Bài số 17
muôn đời đẹp nhất là thơ
trong là nước mắt ngu ngơ là tình
bài thơ ta viết cho mình
là bài thơ của mối tình ngu ngơ
Bài số 27
thương ai con mắt lim dim
em ơi đừng ngủ, tiếng chim đầy vườn
em - con ngựa chứng không cương
ta - tên kỵ mã vết thương đầy người
Bài số 33
Cầu trời sóng gió bình yên
em về xin cứ thiên nhiên mà về
Tạm biệt Huế
Tặng C.
Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
mặt trời vàng và mắt em nâu
Xin chào Huế một lần anh đến
đã ngàn lần anh nhớ hư vô
em rất thực mà nắng thì mờ ảo
xin đừng lầm anh với cố đô
Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
nắng mênh mang mấy nhịp Tràng Tiền
nón rất Huế mà đời không phải thế
mặt trời lên từ phía nón em nghiêng
nhịp cầu cong và con đường thẳng
một đời anh đi mãi chẳng về đâu
con sông dùng dằng con sông không chảy
sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
anh trở về hóa đá phía bên kia
Huế, 1980
Mong em về trước cơn mưa
mong em về trước cơn mưa
mây giăng kín núi đò chưa cập cầu
thương em nhiều nỗi nông sâu
truân chuyên con nước biết đâu anh dò
ba mươi năm một chuyến đò
chưa xong chuyến lại con cò sang sông
trăm năm một cõi bềnh bồng
chanh chua chuối chát vẫn nồng trầu cau
em còn đợi chuyến đò sau
hay là không thể đợi nhau bờ này?
em về lấy tóc chẻ mây
buộc anh đứng lại như cây sông Hàn
để cho anh với bạch đàn
ngẩn ngơ che nắng nhỡ nhàng trú mưa
lòng anh như tấm vải thưa
em con mắt thánh đung đưa ước gì?
thôi đừng cong nữa làn mi
trời sinh con mắt khỏi đi đường vòng
lòng anh con nước đang ròng
biển đau rút ruột cua còng chỏng trơ
lấy khăn mà gói bơ vơ
tay cầm nước mắt bao giờ sang sông?
gặp mênh mông cũng mênh mông
nắng qua bao chuyến mà không nhạt nhòa
lòng anh rúc tiếng tù và
gọi đò mãi... bỗng nhớ ra gọi mình.
Sông Hàn, 1985
_____________________
Mắt na
Tặng Thu Bồn
Rủ nhau thăm cỏ vườn đồi
gió hoang lay động một trời lá na
Na ơi hãy mở mắt ra
mà xem trăng thế mới là trăng suông
Rượu suông uống với cây vườn
với em chia sớt nỗi buồn màu đêm
Chúng mình nhắm mắt đi em
cho na mở mắt ra xem chúng mình.
Nguyễn Duy (Suối Lồ Ồ, 7.9.1992)
» Thủ tướng đặt câu hỏi việc Xuân Quỳnh 'trượt' giải thưởng
» Vì sao nữ thi sĩ Xuân Quỳnh không được Giải thưởng Hồ Chí Minh?
» Bao nỗi khổ niềm yêu thành tiếng hát
» Thương nhớ sông Hàn
Nguồn: nguoidothi.vn